Tại sao du học sinh không về nước?
Nghiên cứu phỏng vấn 440 sinh viên quốc tế và phỏng vấn sâu 48 người, bao gồm 21 sinh viên quốc tế, người nhà và đồng nghiệp của họ, để xem mức độ hài lòng của họ với công việc hiện tại ở Việt Nam so với kiến thức và kỹ năng họ có được ở nước ngoài. , cũng như những kỳ vọng của họ khi đi du học.
Trước đó, cô cũng thực hiện một nghiên cứu khác, phỏng vấn sâu 20 sinh viên quốc tế, đang theo học tại các trường đại học ở Sydney (Australia), về động lực của họ khi quyết định ở lại hay quay lại.
Phát biểu với BBC News Việt Nam vào ngày 20 tháng 9 về kết quả nghiên cứu trên, Tiến sĩ Liên cho biết 100% du học sinh muốn ở lại đất nước của họ để học tập và làm việc, ngay cả khi gia đình của họ khá giả hoặc họ làm việc tại Việt Nam.
Còn việc họ học xong, ở lại hay trở về Việt Nam thì phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tìm được việc làm của họ.
"Nếu bạn tìm được việc làm ở nước ngoài, tôi đảm bảo bạn sẽ ở lại. Nếu bạn không thể tìm được việc làm và đất nước họ đang học, không có thị thực để ở lại và làm việc sau khi bạn lấy bằng tốt nghiệp, và họ không thể gia hạn. có visa thì họ buộc phải quay lại Việt Nam ”, bà Liên nói.
Tại sao du học sinh không muốn quay lại?
Theo kết quả nghiên cứu trên, lý do nhiều du học sinh không muốn về nước sau khi học xong là vì họ muốn tìm việc làm. Nếu họ quay trở lại, khả năng kiếm được việc làm có thể áp dụng những kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm mà họ có được trong môi trường kinh tế xã hội rất khó khăn của Việt Nam. Chưa kể lương và các mối quan hệ xã hội.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales (Australia), trao đổi với BBC Tiếng Việt hôm 23/9, về những nhận xét được đưa ra khi tiếp xúc thực tế với sinh viên du học Australia, theo đó:
"Cũng như sinh viên nhiều nước khác, sinh viên Việt Nam mong muốn được ở lại Úc chủ yếu vì điều kiện làm việc và nghiên cứu." Điều kiện "ở đây không chỉ bao gồm cơ sở vật chất khoa học (cần thời gian xây dựng) mà còn là hệ thống thăng tiến và khen thưởng. Và đặc biệt là môi trường làm việc và sự tương tác giữa con người với nhau. Ở Việt Nam, người ta có câu nói về cơ hội như “Nhất hậu, nhì kim, ba tiền, bốn trí” làm nản lòng nhiều người mong muốn về quê cống hiến.
Sau đó đến câu hỏi tài chính. Du học là một khoản đầu tư khá lớn của gia đình, vì vậy họ mong muốn có một thu nhập tốt, ổn định để trang trải chi phí trong quá trình học. Trong một số trường hợp, họ nghĩ xa về tương lai của con cái họ. Họ cho rằng khi có con, môi trường cho con đi du học luôn tốt hơn và có khi rẻ hơn trong nước ”, GS Tuấn nói.
GS Tuấn cũng nói thêm: "Tôi hiểu và thông cảm hoàn toàn. Nhìn thế này, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi biết tại sao nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh mong muốn ở lại nước ngoài sau khi tốt nghiệp".
Những trở ngại đối với những người trở về
Câu hỏi đặt ra là khi trở về nước, những kiến thức và kỹ năng mà những người trẻ đã có được trong quá trình học tập ở nước ngoài nhận được như thế nào?
Theo nghiên cứu trên của TS Phạm Thị Liên, sinh viên quốc tế lấy bằng cử nhân chỉ được ứng dụng các kỹ năng mềm chứ không phải kỹ năng chuyên môn hay kỹ thuật.
Nguyên nhân là do các du học sinh khi trở về thường làm việc trong các công ty đa quốc gia của nước ngoài. Nhưng các chi nhánh của các công ty đa quốc gia này tại Việt Nam thường không có bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) mà chỉ sản xuất, bán hàng hoặc kinh doanh theo chuỗi cung ứng. Do đó, các kỹ năng kỹ thuật trở nên không cần thiết.
Còn những người học thạc sĩ, tiến sĩ, khi trở về thường dạy đại học nhưng tình hình cũng không khá hơn là bao.
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi mức độ hài lòng của du học sinh trở về Việt Nam với công việc hiện tại tại Việt Nam là khá thấp. Theo nghiên cứu, chỉ có khoảng 44% du học sinh trở về hài lòng với công việc hiện tại.
Trong số nhiều yếu tố, mức độ hài lòng với kỳ vọng về tiền lương và kỳ vọng phát triển nghề nghiệp là khá thấp.
Không dễ dàng gì đối với các du học sinh khi trở về Việt Nam để áp dụng những kiến thức và kỹ năng đã học. Và nếu họ đi du học về mà chỉ áp dụng các kỹ năng mềm, thì “họ sẽ không thể sử dụng những thế mạnh mà họ có được khi đi du học và các kỹ năng kỹ thuật khác sẽ dần biến mất”, Tiến sĩ nhận định.
Vì vậy vấn đề không phải ở du học sinh mà ở khả năng tiếp nhận khối óc của Việt Nam.
Chảy máu chất xám - một cái nhìn khác
Lâu nay, báo chí thường nhắc đến nạn “chảy máu chất xám”, hay tình trạng du học sinh ra đi không trở lại.
Thừa nhận hiện tượng này, Lê Hải Nam, nghiên cứu sinh tại Đại học Dublin (Ireland), trong một bài báo đăng trên tạp chí quốc gia, cho rằng chất xám hiện là tài sản chung nên được phổ biến ra thế giới chứ không phải là lên đến. đến một khu vực địa lý cụ thể.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales, cũng cho biết:
"Thực tế, khái niệm 'chảy máu chất xám' (hay 'chảy máu chất xám') không hoàn toàn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa và thế giới phẳng. Ngày nay sinh viên học tập và được chấp nhận ở lại nước ngoài có tác động tích cực đến cả nước nhà và nước sở tại, cũng như từng cá nhân sinh viên.
Trao đổi với BBC News Việt Nam cùng ngày, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Vũ, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Oxford (Anh), dẫn số liệu thống kê của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Thống kê này cho thấy trong giai đoạn 2007-2012, 86% số lượng bằng độc quyền sáng chế mang tên Việt Nam được đăng ký khi đang làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp nhóm người này quyết ở lại quê hương, sự cống hiến của họ cũng khó thực hiện trọn vẹn.
Vì vậy, theo TS Vũ, “không nên coi chảy máu chất xám một cách cứng nhắc là một yếu tố tiêu cực mà nên coi đó là một tất yếu của sự phát triển chung của nhân loại”.
Khuyến khích sinh viên quốc tế quay trở lại
Nhưng dù có coi hiện tượng “chảy máu chất xám”, hiện tượng “không bao giờ có lùi” vẫn cho thấy những thất bại trong chính sách thu hút nhân lực của Việt Nam.
GS Nguyễn Văn Tuấn nhận xét:
"Tôi không biết chính trị Việt Nam nên không có ý kiến. Nhưng nhìn vào thực tế, việc đa số sinh viên muốn ở lại nước ngoài làm việc thì cơ quan chức năng cao nhất của Việt Nam phải suy nghĩ, tạo điều kiện, môi trường như thế nào. cho các chuyên gia, không chỉ ở nước ngoài mà trước hết là ở trong nước, để họ có cơ hội bình đẳng và những đóng góp của họ được ghi nhận một cách xứng đáng, đủ năng lực để đẩy lùi tình trạng chảy máu chất xám.
Vẫn dựa trên kinh nghiệm của bản thân, TS Vũ cho biết: “Khi đi du học, ai cũng muốn về nước. Tuy nhiên, tôi phải tự hỏi mình bây giờ tôi có thể làm gì. Theo tôi, làm việc ở bất kỳ quốc gia nào cũng là đóng góp cho sự phát triển chung. Hiện nay, có rất nhiều người Úc, Mỹ, Anh ... cũng đến Việt Nam sinh sống và làm việc. Vì vậy, lựa chọn tối ưu cho tôi lúc này. Đó là việc tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu ở các trường đại học hàng đầu trên thế giới, trong khi chờ đợi thời điểm thích hợp để quay trở lại. "
Rút ra từ nghiên cứu của mình, TS Phạm Thị Liên đề xuất:
“Nếu Việt Nam muốn sử dụng các kỹ năng chuyên môn và kỹ thuật, chính phủ phải có các chương trình khuyến khích các tổ chức quốc gia tiếp nhận sinh viên trở về. Bởi vì chỉ có các công ty quốc gia mới làm việc cho các công ty quốc gia. Ngoài ra, các trường đại học ở nước ngoài cần mở rộng các cơ sở thực tập, để sinh viên quốc tế có cơ hội làm việc không chỉ với các công ty trong nước, mà còn tại các công ty ở Việt Nam hoặc các nước khác. Từ đó, du học sinh sẽ có cơ hội xây dựng các mối quan hệ, để khi trở về không bị bỡ ngỡ. bạn cũng có cơ hội tìm thấy các công ty mà họ có cơ hội áp dụng các kỹ năng và kiến thức mà họ đã có được. "
TS Nguyễn Tiến Vũ đưa ra một đề xuất khác, đó là thay vì thu hút sinh viên quốc tế về nước, Việt Nam có thể dành nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên quốc gia, để sinh viên đại học trong nước luôn có chất lượng như sinh viên du học.
“Làm được như vậy thì không phải lo 'chảy máu chất xám' nữa mà có thể nghĩ đến chuyện 'xuất khẩu chất xám', bởi học sinh Việt Nam vốn thông minh, chăm chỉ", TS trẻ này nói.